Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Chìa khóa vạn năng

Nguyễn Văn San

Nguyễn Văn San
  • Tư vấn, chăm sóc sức khỏe bằng các phương pháp tự nhiên như Diện chẩn, Bấm huyệt, Khí công, Thực dưỡng và Thiền.
  • Từ 18h-21h tại 174 Giải Phóng, phòng 312, nhà P3 (17 tầng), Phương Liệt, Thanh Xuân, Hà Nội, điện thoại: 0945 689 573.

Bài trong tháng

Thống kê


Xem bài

  • Trong 24 giờ: 3,050
  • Trong 7 ngày: 21,410
  • Trong 30 ngày: 95,325
  • Trực tuyến: 14

KÍNH MỪNG SINH NHẬT ĐỨC TỔ SƯ ĐASIRANARAĐA LẦN THỨ 167

Hằng năm cứ vào ngày 24 tháng 10 dương lịch, Trong giờ phút thiêng liêng trọng đại này, tất cả các Môn sinh của Ngài tụ tập về các tụ điểm của mình .Tất cả các nước trên toàn thế giới ,với tất cả lòng thành kính và biết ơn sâu thẳm nhất để làm lễ Sinh nhật lần thứ 167 của Ngài trong năm 2013.Đêm giao thừa giữa ngày 23 và ngày 24. Đón mừng ngày sinh nhật Đức Tổ Sư để tỏ lòng tôn kính nhớ ơn Ngài Sư tổ đã sáng lập ra Trường Sinh Học giúp cho nhân loại thoát cảnh ốm đau bệnh tật của thân xác, làm cho người đời cái tâm hướng tới hướng thiện, tình thương đến với nhân loài, loại đi những ham muốn dục vọng,tham- sân- si, tranh giành âm mưu xảo quyệt với nhau làm những điều ác... Ngồi hưởng lực gia trì của Đức Tổ Sư 60 phút thay vào đó làm con người chúng ta từ bi hơn.tình thương bác ái hơn đúng nghĩa với Trường Sinh Học mà Đức Tổ Sư dạy.
hình ảnh Anh Em kính mừng sinh nhật Đức Tổ Sư tại Hội Trường Đông Y Tỉnh Quảng Nam



 
 Hình ảnh anh em kính mừng sinh nhật Đức Tổ Sư tại nhà Đức Thủy Tam Kỳ







Anh Em hưởng bánh Hội Vân đem về




 

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Cô THU mở lớp Tại Hội Trường Đông Y Tỉnh Quảng Nam

Thứ Hai Ngày 30 tháng 9 năm 2013 Cô đã mở lớp cấp 1 -2 tại hội trường Đông Y tỉnh Quãng Nam, với sự có mặt tham gia học viên mới 120 người . sau đây là hình ảnh




Cuối Tuần Cô mở Lớp cấp 3. 172 học viên .Sau đây là hình ảnh



Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

LUYỆN TÂM


      Tâm vô nhiễm  có sức mạnh năng lượng vô cùng lớn, là chủ nhân ông của mỗi người.
Khi cơ thể còn nhiễm trược, thì Tâm còn phiền não và  suy nghĩ còn sai quấy, Tâm chưa đủ năng lượng làm chủ đời sống, bị vòng xoáy cuộc đời lôi cuốn vào nhiều sai lầm, hậu quả khổ đau. Mục đích luyện tâm, là đạt được An lạc và  Sáng suốt.
Tâm vô nhiễm ( không nhiễm ô trược )  có sức mạnh năng lượng vô cùng lớn, là chủ nhân ông của mỗi người, vì Tâm thanh tịnh kết nối với  năng lượng  Prana ( Thượng Đế ) có tầm nhìn xa trông rộng quá khứ hiện tại tương lai, thoát khỏi hậu quả sai lầm của vô minh.
Luyện tâm theo giới luật, thì rất khó khăn với người đang  làm việc ngoài xã hội. Có thể Luyện tâm thanh tịnh theo phương pháp thực hành Nếp sống Chính niệm, rèn luyện tâm an lạc, kết hợp thực hành luyện tập Vô thức. Sức mạnh Vô thức giải trừ  ô trược, loại bỏ tận gốc mầm móng phiền não, bệnh tật, làm cho tâm thanh tịnh, an lạc. Luyện tâm gắn bó khăng khít với luyện tập Vô thức. Nếu không thực hành an lạc, giảm bớt căng thẳng,  sẽ khó khai mở sức mạnh vô thức. 
I. N là  tập trung hoàn hành một việc hữu ích của  mỗi ngày giờ, giờ nào việc nấy. Chính niệm đem lại hiệu quả rất lớn. Vì bộ óc có đặc điểm, mỗi lúc chỉ xử  lý 1 việc. Nếu làm hai ba việc một lúc bộ óc sẽ giảm hiệu quả làm việc. Đức Phật chỉ dẫn: “Khi đi ta đi, khi ăn ta ăn, khi ngủ ta ngủ”. Đó là nếp sống Chính niệm.
Sống chính niệm
1. Khi ta đi:
Vai trò bước chân rất quan trọng. Khi đi bộ chậm, tâm chú ý vào từng bước đi, sẽ vận hành khí lực kéo khí xuống chân, thông kinh mạch rất tốt cho cơ thể. Cũng là đi, nhưng không có vai trò của tâm, còn mải suy nghĩ lo toan việc khác, là bước chân vô tình, đi cả đời kinh mạch vẫn bế tắc. Thiền hành là đi bộ chậm từng bước thong thả đều đặn, không nói chuyện. Toàn thân thả lỏng, tập trung vào sự chuyển động, hít thở nhẹ, năng lượng phân phối đều xuống hai tay, làm thông khí, tiếp nhận nhiều năng lượng. Bàn tay sẽ hồng hào căng sinh lực, có nước miếng ngọt là đạt hiệu quả tốt. Đi bộ chân đất tốt hơn. Trời lạnh thì đi dép.
Đây là một thực tập có nhiều lợi ích trị liệu. Các nhà nghiên cứu Viện đại học Colorado ( Mỹ ) xác định: Chỉ cần 6 giờ/tuần đi bộ thiền hành hoặc đi xe đạp, là có thể ức chế sự suy thoái miễn dịch do tuổi tác.
Đi bộ thiền hành còn lan toả xuống đất năng lượng từ bi. Mỗi bước chân khoan thai và tư tưởng từ bi của bạn đã đóng góp năng lượng thiện ích bảo vệ trái đất.  
Phát hiện của Bác sĩ Erơnơ Mun Đa Sép ( Nga ) trong chuyến đi khảo sát Tây tạng năm 2002, đã phát hiện: Bức thông điệp bi thảm của cổ nhân  ( NXB Thế giới – 2005 ) nói về sự tồn vong của trái đất, do lực đối trọng giữa năng lượng lực tiêu cực ( ác ) và năng lượng tích cực ( thiện ), nếu đến giới hạn mất cân bằng, sẽ làm lệch trục trái đất, hủy diệt sự sống. Nếu 8 tỷ người trên trái đất liên tục nện xuống đất những bước chân giận dữ, phát ra tư tưởng tranh giành khổ hại nhau, tích tụ từng ngày làm tăng nhanh năng lượng tiêu cực.
2. Khi ăn ta ăn:  Cách ăn rất quan trọng "bệnh từ miệng mà ra". Khi chú ý bữa ăn, cơ thể sẽ tăng bài tiết nước bọt rất quý, và thưởng thức hương vị thơm ngon tinh tế của món ăn. Ngược lại ăn vội vã, sẽ ít tiết dịch, miếng ăn còn thô không tiêu hoá hết trong dạ dầy, khiến đầy bụng, lên men thối rữa, phát ra độc tố thấm vào máu. Thức ăn nhiều hóa chất và không tiêu hóa hết là một nguyên nhân ung thư. Tâm trạng lúc ăn bực bội, buồn bã cũng khó tiêu hóa, cơ thể phản ứng cổ họng co thắt khó nuốt. Ăn khi vui, miếng nhỏ mà nhai kỹ, chỉ nuốt nước, còn bã giữ lại nhai tiếp, là cách ăn tiêu hóa tốt. “Khi ăn ta ănkhông xem ti vi, ăn trong trạng thái vui vẻ, cảm nhận hương vị thực phẩm, thời gian 30 phút, chuyển hoá toàn bộ thức ăn thành chất dinh dưỡng quý. Đó là bữa ăn chính niệm, đem lại giá trị hạnh phúc. Thành phần máu thường xuyên thay đổi theo phẩm chất ăn uống, nên bữa ăn có ý nghĩa quan trọng đối với sức khoẻ và tâm linh. Thái độ tuỳ tiện với bữa ăn, phải trả giá bằng bệnh tật, và suy thoái tinh thần, tâm linh.
 3. Khi ngủ ta ngủ: Giấc ngủ phục hồi  cơ thể, sửa chữa tế bào, sau một ngày hoạt động. Giấc ngủ sâu tốt nhất là quãng  12h -1h đêm. Vì thế phải biết sự quý giá của giấc ngủ. Đến giờ ngủ là đi ngủ. Đó là hành động chính niệm, một thói quen tốt cho sức khỏe, tinh thần.
II. SUY NGHĨ CHÍNH NIỆM:
Suy nghĩ chính niệm là biết lựa chọn  việc gì hữu ích nhất, và tập trung hoàn thành 1 việc đó. Khi có nhiều việc, người chính niệm sẽ biết tập trung vào một việc cần làm, biết phải làm gì và không làm gì, không do sự can thiệp của ng­ười khác hay ảo tưởng của mình, không reo rắc sự căng thẳng cho người khác.
    Người chính niệm sẽ biết tập trung vào một việc cần làm, biết phải làm gì và không làm gì.
 Tư duy chính niệm, tạo nên kinh nghiệm lựa chọn, phân minh việc nào cần làm hay không cần làm, giúp trí tuệ ngày càng sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng của minh triết,  trực giác phát triển. Khi dứt khoát làm một việc,  sẽ bớt suy nghĩ mông lung, chấm dứt phiền não.
Tư duy chính niệm xuất hiện khi tĩnh lặng. Sự bình tâm mới có quyết định sáng suốt. “No quá mất ngon, tức quá mất khôn”.
Sống chính niệm mỗi ngày giúp con người trưởng thành từng ngày, tạo con người kiên định, có bản lĩnh vững vàng, có trực giác tỉnh thức với hiện tại từng ngày, từng giờ, có sức mạnh nội tại, tạo nên những thành công. Chính niệm là chìa khóa thành công mọi việc.     
Người chính niệm cao nhất là người suốt đời chính niệm một việc. Họ trở thành các bậc Minh sư, Minh triết, Giác ngộ, Thánh nhân. 
Cơ thể chúng ta là bậc thầy Chính niệm. Não bộ thực hiện chức năng điều khiển  80.000 tỷ tế bào ( gấp 1.000 lần dân số
     An lạc là thứ tài sản vô giá, không mua nổi bằng tiền. Nhiều người có thành đạt, có tài sản lớn, nhưng không An lạc cho mình.
thế giới ), vẫn đảm bảo hoạt động chính xác, nhờ tuân thủ chính niệm rất chặt chẽ. Đến giờ ăn thì hoạt động tiêu hóa ưu tiên hàng đầu, đến giờ ngủ là buồn ngủ, để bộ phận tiêu hóa nghỉ ngơi, năng lượng được tập trung sửa chữa, phục hồi tế bào thần kinh sau một ngày hoạt động. Vì chúng ta vi phạm quá nhiều sự chính niệm  của cơ thể, không tuân thủ nhịp sinh học, làm giảm sức mạnh cơ thể, nên sinh ra bệnh tật, yếu kém sức khỏe.  
Đức Phật chỉ dẫn phải biết chính niệm vào 32 điều trong cuộc sống sẽ đạt được đời sống đại Hạnh phúc, hay đại Phước đức. Xem nội dung  Kinh đại Phước đức.
III. TÂM AN LẠC: 
An lạc là thứ tài sản vô giá, không mua nổi bằng tiền. Nhiều người có thành đạt, có tài sản lớn, nhưng không An lạc cho mình. Nhiều người cho rằng An lạc là thứ khó kiếm hơn tiền bạc. Nếu không có phương pháp phù hợp khó tìm kiếm được sự An lạc.
Tâm An lạc là trạng thái tinh thần không căng thẳng, không còn phiền não, lúc nào cũng điềm tĩnh trước hoàn cảnh xấu hay tốt.  An lạc là một phương pháp tư duy làm con người lạc quan, sáng suốt. Dù khó khăn hay thuận lợi người đó vẫn an nhiên tự tại vui sống và thành đạt, vì họ thấy ý nghĩa tốt đẹp của đời sống. Những bài học thất bại hay thành công đều cùng một vẻ đẹp tất yếu của đời sống, một  quá trình chuyển hóa cần thiết, có cái này mới phát sinh cái kia. “Thất bại là mẹ Thành công”. Vì thế người An lạc không phải cố gắng giải sầu, vì họ hiểu mọi việc xảy ra đều đúng căn nguyên của nó. Họ trân trọng nuôi dưỡng an lạc cho bản thân, không chạy theo sự  cuồng nhiệt của Tham, Sân, Si. Đời sống An lạc giúp Não bộ nhiều năng lượng, bộc lộ cái tinh túy của trí tuệ là trực giác nhạy bén. Vì vậy An lạc đem lại sự thông minh sáng suốt làm được nhiều lợi ích cho xã hội, cho gia đình.
     Chủ thuyết An lạc của Đạo Phật, giúp con người hiền hòa, dịu bớt hung dữ, bớt thù hận, đánh giết nhau, là đóng góp lớn lao của Đạo Phật cho Hòa Bình thế giới.
Đời sống An lạc được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni  ( Ấn Độ ) khởi xướng năm 563 trước công nguyên. Đức Phật phát hiện An lạc là con đường giải thoát khổ đau cho loài người. Phật đã chỉ ra những giải pháp đem lại sự An lạc. Giải pháp lớn nhất thực hành 4 việc “TỪ, BI, HỶ, XẢ” và Thiền định. Chủ yếu phải Xả được Tham, Sân, Si. Thiền định chuyển hóa những phẩm chất bên trong tế bào thần kinh, làm cho nó thông suốt trong sạch và khỏe khoắn, tự nhiên chấm dứt phiền não.
Giải pháp nữa là thực hành Niệm hồng danh Phật A Di Đà: “Nam mô A Di Đà Phật”. Niệm liên tục làm cho tâm An lạc. Khi niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, tức là  “Kính lễ Đức cha Ánh sáng A Di Đà”.
Giải pháp nữa là luyện Thở An ban thủ ý, tức là thủ ý, chú ý theo dõi hơi thở, thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra, thở từ tốn nhẹ nhàng chậm, là hơi thở sâu và cung cấp nhiều năng lượng sạch, làm cho Tâm  an lạc.
Chủ thuyết An lạc của Đạo Phật, giúp con người hiền hòa, dịu bớt hung dữ, bớt thù hận, đánh giết nhau, là đóng góp lớn lao của Đạo Phật cho Hòa Bình thế giới. Liên Hiệp quốc đã Kỷ niệm ngày Phật Đản sinh là ngày Lễ hội quốc tế.
Nhà khoa học ưu tú nhất A.Einstein: “Nếu có một tôn giáo nào có thể vượt thắng được những đòi hỏi của khoa học hiện đại thì đó là Đạo Phật”.
Nietzchs phát biểu: “Đạo Phật vượt trội có năng lực giải quyết các vấn đề triết học và thực tiễn của đời sống.”
Nguyên nhân hiện nay Thiền định khó chấm dứt phiền não, vì ô nhiễm môi trường nặng nề gấp nhiều lần thời đức Phật tại thế. Bên trong cơ thể đầy độc tố nhiễm trược, tạo ra tâm phiền não. Phương pháp Khai mở sức mạnh Vô thức, giải nhiễm trược cho cơ thể, tiếp nối tư tưởng của Phật về giải ngũ trược, và  trở về Cội nguồn Ánh sáng vô lượng quang A Di Đà..
   nguồn sucmanhvothuc.com/

Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

25 HUYỆT ĐẠO

1. Thần khuyết: Rốn, thuộc tuyến Tụy. Sinh lực cơ thể.
2.Trungcực (nam) hoặc Quan nguyên, (nữ): Thuộc tuyến nội tiết Sinh dục.
3. Trường cường: Mỏm đốt sống cụt. Sinh lực cơ thể.
4. Mệnh môn: Đốt sống 13, ngang rốn sang. Tiêu hóa,bài tiết, sinh lực, chuyển khí xuống chân.
5. Dương cương: Đốt sống ngang đỉnh thận, tuyến thượng thận.
6. Linh đài: Đốt sống ngang tim. Hoạt động Tim mạch, cảm xúc cao thượng.
7. Đại chuỳ: Dưới đốt sống cổ. Tuyến hô hấp, thở.
8. Ngọc chẩm: Vùng gáy. Tuyến nội tiết tiểu não, tuỷ.
9. Bách hội: Đỉnh đầu. Tuyến Tùng. Sinh lực dương.
10. Thái dương: Hõm thái dương. Giảm căng thẳng.
11. Thần đình: Trước trán. Thuộc tuyến nội tiết: Dưới đồi.
12. Ấn đường: Giữa hai lông mày. Thuộc tuyến Yên.
13. Sơn căn: Sống mũi giữa hai mắt. Sinh lực dương.
14. Nhân trung: Hõm dưới mũi. Sinh lực.
15. Thuỷ đột: Dưới yết hầu. Tuyến giáp và cận giáp.
16. Thiên đột: Giữa hõm ức. Tuyến giáp và cận giáp.
17. Đản trung: Hõm giữa hai đầu vú. Tuyến ức.
18. Trung quản: Giứa ức và rốn. Tuyến tuỵ.
19. Độc tỵ: Hõm dưới  ngoài xương bánh chè. Sinh lực.
20. Uỷ trung: Hõm giữa khoeo chân. Sinh lực.
21. Túc tam lý: Hõm dưới xương bánh chè phía ngoài 2 thốn. Tổng huyệt vùng trung tiêu chuyển khí xuống chân.
22. Dũng tuyền: Hõm 1/3 gan bàn chân. Thận.Sinh lực âm.
23. Tam âm giao: Trên mắt cá trong 3 thốn.Tổng huyệt vùng hạ tiêu, chuyển khí xuống chân.
24. Lao cung: Hõm giữa lòng bàn tay. Sinh lựcdương.
25. Hội âm: Giữa hậu môn và sinh dục. Sinh lực âm.
 

Vị trí sáu đường kinh mạch dưới móng chân
1. Kinh Tỳ: Chủ về chuyển hóa thức ăn, tạo khí huyết. Cácbệnh về tụy, dạ dày, đường ruột. Liên hệ Kinh Vị, Tâm.
2. Kinh Can: Chủ về tiêu hóa, bài tiết độc tố, cung cấp máu huyết, thúc đẩy hoạt động khí. Bệnh về gan, tiêu hóa, máu huyết, mật, sinh dục, tiết niệu, ung thư, viêm sưng, táo bón, da. Nối thông Kinh Đởm ,Vị.
3. Kinh Vị:Chủ về tiêu hóa, chứa và nghiền nát thức ăn. Bệnh về dạ dày, tiêu hóa, bệnh ở Mặt, mắt, tai, răng, họng, đầu. Nối thông kinh Tiểu trường, Đại trường, Tỳ.
4. Kinh Đởm: Tạo tinh chất mật, dũng khí, bản lĩnh con người. Bệnh về mật, tiêu hóa. Nối thông kinh Can.
5. Kinh Thận:Chủ về bài tiết, sinh dục, cốt tủy, sinh tạo tủy não xương, trí thông minh. Bệnh ở Thận, sinh dục, huyết áp cao, mắt, não, tủy. Nối Kinh Phế, Can, Bàng quang, Tâm.
6. Kinh Bàng quang:Chủ về bài tiết nước tiểu. Bệnh ở bàng quang, u tuyến tiền liệt, tiểu tiện, bệnh đầu, gáy, lưng, cột sống, tạng phủ, mắt, mũi. Nối thông thận, não.
        Vị trí sáu đường kinh lạc dưới móng tay

1. Kinh Phế: Chủ hô hấp và khí, da. Bệnh ở phổi, ngực, họng, khí quản, thanh quản, da. Nối thông Đại trường, Vị, Can.  
2. Kinh Đại trường: Chủ về bài tiết cặn bã, hấp thụ dinh dưỡng. Bệnh ở ruột già, trĩ, táo bón, bệnh tai mũi, họng, răng, đầu, gáy, bài tiết. Nối thông  Kinh  Phế.
3. Kinh Tâm bào: Bao bọc bảo vệ kinh Tâm. Bệnh ở Tim ngực, thần kinh thực vật, dạ dày. Bệnh âm. Nối  Kinh Tam tiêu.
4. Kinh Tam tiêu: Phủ bảo vệ phía ngoài các tạng phủ. Gồm các vùng Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu. Bệnh ở tim, ngực, bụng, tai. Nối thông Tâm bào.
5. Kinh Tâm: Đứng đầu các tạng phủ, chủ về tinh thần, chủ huyết mạch. Bệnh ở Tim, ngực, thần kinh, huyết áp. Nối thông Tiểu trường.

       

 

      CHĂM SÓC TUYẾN YÊN

      Hoạt động tuyến Yên nhờ năng lượng Nguyên khí. Nguyên khí là vốn bẩm sinh từ cha mẹ dòng họ di truyền, quyết định tuổi thọ của mỗi người.
Tuyến Yên có vai trò hàng đầu duy trì tuổi thọ và trạng thái sức khỏe. Tuyến Yên vừa điều khiển sự chuyển hóa năng lượng bên ngoài vào ( điều khiển hoạt động Kinh mạch huyệt đạo, hô hấp ), vừa chuyển hóa năng lượng bên trong (điều tiết nội tiết tố). Chuyển hóa năng lượng là vai trò chủ đạo sự sống, như vai trò Thượng Đế. Tuyến Yên yếu thì sức khỏe kém.Tuyến Yên khỏe thì sinh lực vô cùng mạnh mẽ, quá trình khỏi bệnh nhanh chóng, đáp ứng miễn dịch rất tốt. Tương lai sức khỏe nhân loại, là đảm bảo tuyến Yên.
Tuyến Yên được Tạo hoá sắp đặt ở vị trí giữa đầu, nơi an toàn nhất, không có sự va chạm cẩu thả nào có thể đụng tới tuyến Yên. Tuyến Yên nhỏ như một hạt lạc nhưng nắm giữ bí mật sinh mạng mỗi người. Tuổi tác làm tuyến Yên lão hóa dần. Hoạt động tuyến Yên nhờ năng lượng Nguyên khí. Nguyên khí là vốn bẩm sinh từ cha mẹ dòng họ di truyền, quyết định tuổi thọ của mỗi người. Kinh mạch huyệt đạo cung cấp năng lượng chủ yếu vào ban ngày, nghỉ ban đêm. Phần lớn nguyên khí được sử dụng ban đêm để duy trì các hoạt động vô thức. Cạn nguyên khí thì kinh mạch tắt, ngừng thở.
     Tương lai sức khỏe nhân loại, là đảm bảo tuyến Yên. Ai nắm vững tuyến Yên là nắm vững sức khỏe của mình.
 Suy thoái tuyến Yên sớm do nhiều nguyên nhân: do di truyền, do ô nhiễm môi trường, do tình dục quá mức, do “truyền nhân điện”chữa bệnh, do thiếu ăn làm việc kiệt sức trong thời gian dài. Dấu hiệu suy thoái ban đầu là bàn tay chân  lạnh, nhăn nheo, khô ráp, có chai da dưới gốc ngón tay ngón chân mà không do lao động, tóc bạc sớm, giảm sút trí nhớ. Sinh khí thiếu làm da tay chân bị chai khô.Nếu đi xét nghiệm máu hoặc chiếu chụp sẽ không phát hiện bệnh. Mỗi người phải tự theo dõi các báo hiệu của cơ thể về tuyến Yên, rất quan trọng. Nếu không luyện tập khắc phục hết chai da, khi môi trường ô nhiễm tác động kéo dài sẽ phát sinh bệnh nan y. Bệnh ủ nhiều năm, phát bệnh thì mệt mỏi, sút cân, khát nước, ù tai, đau gáy, nhức xương, có bọng nước ở mắt, ở chân, mắt kém, thiếu máu, phát bệnh nan y, và các bệnh lai rai lâu khỏi. Vì vậy nếu phát hiện có nốt chai da ở gốc ngón tay út, áp út,phải luyện tập vô thức phục hồi tuyến Yên, ăn uống sạch dinh dưỡng tốt, không nhiễm hóa chất, phải ngừng ngay rượu bia. Tuyến Yênphục hồi thì da tay chân căng mọng, mềm mại, hết chai da.
Tuyến Yên hoạt động chủ yếu bằng Nguyên khí bẩm sinh. Do đó Tây y không can thiệp đầy đủ các hoạt động bí ẩn của tuyến Yên, dù có phương tiện hiện đại bệnh nan y vẫn tăng. Mỗi người tự giác chăm sóc tuyến Yên, không đổ thừa hoàn toàn cho bác sĩ.   
Bệnh suy thoái tuyến Yên, gây nên các rối loạn chuyển hóa chức năng và rối loạn nội tiết tố, là nguyên nhân chính gây nên các bệnh nan y, ung thư,  ngày càng gia tăng. Suy thoái tuyến Yên sẽ trở thành căn bệnh nan y nhất thế kỷ, do hậu quả của ô nhiễm sóng độc hại, xuyên thấu làm hư hại tuyến Yên, có thể gây nên chết người hàng loạt trong tương lai.Dấu hiệu đầu tiên chỉ là nốt chai da nhỏ bé ở gốc ngón tay út. Tuyến Yên suy thoái âm thầm không loại thuốc hoặc máy móc nào kiểm soát được tuyến Yên

 

Vị trí các tuyến Nội tiết

CHẤT LƯỢNG SỐNG

Nếu bạn đang đau khổ, đang thất vọng, đang bệnh nan y, đang kiếm tìm Chân lý… hãy tìm về nơi Cội nguồn mẹ hiền vũ trụ – là năng lượng gốc Prana loài người đang tìm kiếm, bạn sẽ có chất lượng sống tốt đẹp trên cả mong đợi.

 RANH GIỚI TÂM LINH 
VÀ MÊ TÍN DỊ ĐOAN
  Mất trí tuệ là cái mất đau thương nhất.  
Càng ngày càng rõ rệt sự tồn tại một thế giới vô hình bên cạnh chúng ta. Thế giới chúng ta sống chịu ảnh hưởng tác động của thế giới vô hình không dưới 50%, tạo nên số phận con người. Cái còn lại là sự nỗ lực của chúng ta cải tạo số phận tốt đẹp hơn. Như vậy thế giới vô hình đóng một vai trò quan trọng không kém gì thế giới văn minh hiện đại, nếu thiếu hiểu biết về thế giới vô hình, cũng giống như người mù ý thức.
Thế giới vô hình, thường được gọi chung chung bằng danh từ “ tâm linh”, gắn liền với Thần thánh, Phật, Chúa, cõi âm, đền thờ, đền chùa , quỷ thần, vong ma, tà thuật…do đó, dễ dàng đi tới một trạng thái hỗn độn nhận thức. Thấy nói tâm linh là nghe liền, hoặc nói đến tâm linh là khiếp sợ vì đã gặp tai nạn. Đó là nhận thức tâm linh mơ hồ, theo cảm tính chủ quan.
Vậy mê tín dị đoan có khác tâm linh không? Hoàn toàn khác, giống như sự đối lập của Phải và Trái, Phật và Ma, Thiện và Ác, Chính và Tà…Sự khác nhau đối lập. Mê tín dị đoan luôn đem lại hậu quả khốc hại, con người bị mê lú, chìm trong bóng tối nô lệ của tà thuật. Hậu quả nguy hại hơn gặp trộm cướp. Trộm cướp lấy tiền của, chúng ta còn cơ hội làm lại tiền của. Mê tín dị đoan cũng lấy hết tiền bạc, nhưng còn lấy cái quý nhất là trí tuệ. Mất trí tuệ là cái mất đau thương nhất. Tà thuật có thể nhẩy vào đầu điều khiển nói năng suy nghĩ , tước đoạt tài sản , trí tuệ, gây bệnh tật đau đớn, gây thói quen quái gở, gây tội ác bất thường. Có những việc tinh vi hơn, tà thuật làm cho si mê một việc, còn các lĩnh vực khác vẫn tỉnh táo như 
     Tạo hóa đã thiết lập rào cản “Âm dương cách biệt” để bảo vệ con người.
một  người bình thường, nên không ai phát hiện mình bị tà thuật điều khiển. Trong xã hội luôn có những  thầy tà thuật núp danh “dạy đạo”, và có các thầy pháp sư sử dụng bùa ngải, sai khiến vong điều khiển người khác. Trước đây sự việc lẻ tẻ không đáng lo ngại. Nhưng hiện nay đang trở thành trào lưu tà thuật lộng hành khắp nơi, chúng tham vọng điều khiển thế giới thay Thượng đế. Số đông bị tà thuật lừa đảo giả mạo Thượng đế cứu thế, rơi vào mê tín dị đoan, ít ai  phân biệt được ranh giới giữa mê tín và tâm linh. Một mớ hỗn độn được cổ xúy phát triển. Thật quá nguy hại.
Tạo hóa bảo vệ con người, chống mê tín dị đoan: Tạo hóa đã thiết lập rào cản “Âm dương cách biệt” để bảo vệ con người. Có một hệ thống trên cơ thể chống lại sự xâm nhập của vong ma. Một số ít người bị khiếm khuyết hệ thống này, đã mắc bệnh âm. Một thanh niên không chịu nổi tạp âm của cõi vô hình, đã gửi email cho tôi: “Cô ơi cứu cháu với, cháu đã rơi vào bước đường cùng. Cháu muốn được sống như người bình thường”.  Nhiều trường hợp bị phá vỡ rào cản  âm dương,  do nghiệp lực báo oán tìm cách xâm nhập làm hư hỏng người đó. Một phần khác do tư tưởng quan niệm mê tín, cố mời gọi cho vong nhập. Người mê tín đã vô tình chống lại sự bao bọc che chở đầy yêu thương của Thượng đế,  phải chịu cái hậu quả mê tín rất khốc hại, có thể mất đứt trí tuệ, tu học, sự  nghiệp, sức khỏe, hạnh phúc.
     Dị đoan là một trong những tai hại lớn nhất thế gian, một trong những xiềng xích tự con người phải hoàn toàn xa lánh nó.
 Có một thế giới tâm linh phát triển, giúp mọi người tỉnh thức thoát khỏi mê tín dị đoan. Đó là các bậc hiền triết, giác ngộ, minh sư, minh triết, phản ánh cái Thiện, cái quy luật của Trời đất, phân biệt được chính tà. Nhiều người rất cảnh giác nói rằng: “Mắt thấy tai nghe mới tin”. Nhưng logic này hoàn toàn không đúng với thế giới vô hình. Ngay cả khi mắt thấy tai nghe, vẫn là sản phẩm dối trá của thế giới vô hình tạo dựng. Bởi vì người âm đọc được ý nghĩ, điều khiển được một vài sự việc để làm tin. Tin vào con mắt thịt, có thể bị mê tín mà không hay biết. Cái nhìn chính xác về thế giới vô hình, là nhìn bằng Trí huệ minh triết, không nhìn bằng mắt.
Thái độ của các nhà Tâm linh về mê tín dị đoan.
Một bậc thầy tâm linh nổi tiếng thế kỷ XX là Kritsnamurti tuyên ngôn: Ai muốn bước đi trên đường Đạo phải tập tự mình tư tưởng, vì dị đoan là một trong những tai hại lớn nhất thế gian, một trong những xiềng xích tự con người phải hoàn toàn xa lánh nó” ( Dưới chân Thầy ).
Họ đâu biết rằng trong cõi âm có rất nhiều vong linh bất hảo hay tìm cách hướng dẫn sai lạc những người non nớt vừa bắt đầu khai mở quyền năng. Dĩ nhiên, với trí tuệ nông cạn, họ không biết tiêu chuẩn để xét đoán những hiện tượng có hợp chân lý hay không? Bởi thế họ dễ bị lung lạc để trở nên một tay sai đắc lực của các vong linh ma quỷ, các sinh vật vô hình. Một con người còn nhiều tham vọng, thiếu công phu trì giới, trong họ còn đầy đủ khí cụ tham, sân, si, ích kỷ, mê muội thì quá dễ dàng để các vong linh lợi dụng. Người tu mà thiếu từ bi, trí tuệ rất dễ bị sa ngã vào ma đạo lúc nào không hay
Nhà ngoại cảm Nguyễn Ngọc Hoài  đã lo lắng: “Gần mười năm áp vong tôi đã thấm thía đủ những góc khuất phức tạp và nguy hiểm trong công tác này. Áp vong càng trở nên phổ biến, các khía cạnh nguy hiểm của nó càng bộc lộ rõ”. “Tôi thấy khi đến với chuyện Tâm linh, thường người ta chợt rũ bỏ hết đầu óc phản biện vốn dĩ rất cần trong mọi việc ở đời. Người ta trở nên ngây thơ, dễ tin đến lạ lùng. Họ có tâm lý tôn sùng, bảo sao cũng nghe. Họ cả tin trước mọi lời người âm. Mà quên mất rằng, người âm cũng từng là người trần vậyVậy mới thấy với vấn đề tâm linh, nếu không thực sự hiểu thì có lẽ ta nên đứng từ xa  mà học hỏi, chiêm nghiệm, chớ nên liều lĩnh vội bước vào mà vô tình gây họa cho bản thân cùng gia đình” .( Một thế giới khác ).
Thông thiên học cảnh báo: “Buổi Hạ ngươn lắm chông gai, và hầm hố, nếu các người không biết thấy bằng mắt Trí huệ, là sẽ bị đến chỗ không tròng, nghĩa là mắt mù vậy. Vô phương cứu chữa những bịnh không phải bịnh, những thuốc không có thuốc, vì con người đâu có con mắt nữa, đã là xác không hồn rồi làm gì còn trí huệ để xét được cái của mình hay cái của người ta. Bần đạo muốn nói rõ, là bị mượn xác hẳn, không còn ông nầy hay ông nọ, bà kia, hay bà nọ nữa. Vì xác đã bị họ chiếm rồi. Ôi thôi! Tu như vậy, thì tu làm chi… Không khí hiện tại nghẹt bởi những vong hồn, đang chờ đợi để mượn xác thân. Nếu ai không biết sống, chính họ mượn ngay cấp kỳ”.
Có nhiều người đi chùa nhưng họ đến để tìm một cái gì đó không liên quan đến việc tỉnh thức tâm linh ( Ngã tâm linh ).
* Thế nào là ranh giới giữa tâm linh và mê tín dị đoan?
Có thể nhận thấy qua biểu hiện đặc trưng giữa chính và tà:
     Vì có mạo danh nên ranh giới mê tín dị đoan và tâm linh rất mong manh, bí hiểm, người bình thường khó phân biệt thật giả.
       - Tính chất của tà thuật:  thích quyền lực, kiêu ngạo, tham lam, dối trá. Dù cố che đậy tinh vi đến đâu, cuối cùng vẫn bộc lộ 4 tính chất đó. Ngoài ra còn một số đặc điểm: lươn lẹo, dọa nạt, xảo quyệt, thù hận, ghét người nói thật, sợ ánh sáng, thích bóng tối, khoe khoang quyền năng... Người có cá tính  như vậy, rất dễ bị thuật xâm nhập, làm tay sai cho chúng.
      - Phẩm chất của Tâm linh: Khiêm tốn, sáng suốt, nắm vững quy luật tự nhiên, trung thực, tế nhị, dịu dàng, nhạy bén, yêu thương, không tham lam,  không thù hận, không khoe khoang thần thông, nhưng sức mạnh từ bi chuyển hóa con người tốt. Tà thuật không xâm nhập vì chẳng có lợi gì cho chúng.
Trên thực tế khó phân biệt  vì sự giả mạo tinh vi của tà thuật, chúng đọc được ý nghĩ và thường núp dưới vỏ bọc tốt đẹp: Từ thiện, Minh triết, Dưỡng sinh, Thần thông, Cứu thế,  Cụ tổ, Bà cô tổ, Phật, Thánh, Thượng đế… Nghĩa là các ngả đường học hỏi tâm linh đều có thể bị tà thuật thao túng, giả danh “dạy đạo”,  “cứu thế”  chúng lừa được tất cả mọi người, dù có chức danh bằng cấp cao. Chỉ duy nhất người không lừa được, là người minh triết.
    Người tâm linh biết sử dụng năng lượng tốt. Nên thế kỷ 21 được coi là Kỷ nguyên tâm linh. Năng lượng sạch là vấn đề hàng đầu của kỷ nguyên tâm linh,  có thể khôi phục giá trị đã mất.
Vì có mạo danh nên ranh giới mê tín dị đoan và tâm linh rất mong manh, bí hiểm, người bình thường khó phân biệt thật giả. Để có tâm linh, người ta phải vượt qua quãng đời mê muội, vấp váp. Tích cực học hỏi minh triết biết rõ đúng sai. Học phải đi đôi với thực hành tu rèn nhờ đó trực giác phát triển. Trực giác sẽ mở đường cho tâm linh phát triển. Nếu chỉ đọc sách, mà không thực hành rèn luyện, thì không thoát khỏi mê tín dị đoan.
Thế giới văn minh đã xa lầy vào năng lượng xấu, ô nhiễm, độc hại và hủy diệt. Người mê tín dị đoan sử dụng năng lượng xấu, nên họ luẩn quẩn trong cái khổ, chưa gọi là Tâm linh.
Tâm linh thực chất là đỉnh cao minh triết, phản ánh sự thật về thế giới vô hình. Căn bản nhất của tâm linh là hiểu biết về thế giới năng lượng. Để hiểu sự thật về năng lượng không đơn giản, vì rất nhiều dạng năng lượng tốt và xấu lẫn lộn trong vô hình. Sở hữu năng lượng tốt là vấn đề thách đố của trí tuệ. Các bậc hiền triết đã dốc sức tìm hiểu hàng ngàn năm nay.
Người tâm linh biết sử dụng năng lượng tốt. Nên thế kỷ 21 được coi là Kỷ nguyên tâm linh. Năng lượng sạch là vấn đề hàng đầu của kỷ nguyên tâm linh, có thể khôi phục giá trị đã mất.
Đoàn Thanh Hương